Chúng ta điểm qua những câu chuyện tâm linh về thề độc, sẽ giúp chúng ta thức tỉnh, cẩn trọng hơn trong lời ăn tiếng nói, không còn dám bạ đâu nói đó như trước nữa.
Chúng ta thường nói “lời nói gió bay” thế nhưng có những người lại khá cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói vì họ tin rằng lời mình nói ra luôn có Thần linh chứng giám.
Họ tin rằng “trên đầu ba thước có thần linh,” mỗi hành vi lời nói của con người đều là được thần linh thấu tỏ, ghi chép lại hết, chỉ chờ đến thời điểm là lời thề sẽ linh nghiệm.
Văn hoá truyền thống phương Đông và phương Tây đều rất coi trọng lời thề, coi đó là thệ ước của con người với Trời và Thần, tuyệt đối tôn nghiêm thần thánh.
Bạn chớ vội vàng khi chưa hiểu nghiệp báo lời thề, nếu tuỳ tiện phát lời thề độc, coi thường nhân – quả, đều phải chịu kết cục bi thảm.
Một trong những chuyện tâm linh về thề độc đáng sợ nhất đó là về một Tỳ kheo ở thời đức Phật còn tại thế. Sau khi tu tập đủ chứng đắc quả A La Hán, cô nói về nhân quả đời trước khiến bản thân từng phải chịu không ít khổ cực.
Vào đời quá khứ, cô từng làm vợ của một vị trưởng giả rất giàu có, có người tiểu thiếp sinh được đứa con trai nhưng vì cô sợ bị thất thế, không được coi trọng như trước nên giết chết đứa trẻ.
Thế nhưng khi bị người tiểu thiếp chỉ đích danh thì cô chối đây đẩy và phát lời thề độc rằng: "Nếu quả thật tôi giết con của cô thì chồng tôi sẽ bị rắn cắn, con tôi sinh ra sẽ bị nước trôi, bị sói ăn thịt, tự tôi sẽ ăn thịt con mình, thân tôi sẽ bị chôn sống, cha mẹ người nhà đều sẽ bị lửa lớn thiêu chết’.
Với tội ác này cô chết bị đọa vào địa ngục chịu vô số những khổ não đau đớn. Sau khi chịu tội ở địa ngục xong, được sinh làm con gái một vị Phạm chí. Thời điểm cô mang thai sắp đến ngày sinh nở có việc nên phải cùng chồng đi về nhà cha mẹ. Sinh con trong đêm thì chồng bị một con rắn độc cắn chết.
Dù khóc than buồn khổ nhưng sáng mai tỉnh dậy cô phải một tay dắt đứa con lớn, tay bồng đứa con nhỏ đi tiếp. Lúc vượt qua con sông cô để đứa con lớn ở bờ sông để bế đứa con nhỏ bơi qua sông trước, đặt con trên bờ rồi mới quay lại đón đứa con lớn. Thấy mẹ quay lại đón, đứa lớn vội chạy ra gần bờ và không ngờ liền bị nước cuốn trôi đi mất, quay lại chỗ đứa con nhỏ thì nó đã bị sói ăn thịt mất.
Trong hai ngày mất cả chồng lẫn con rồi đến khi về nhà thì bố mẹ vừa bị chết cháy cách đây vài ngày. Một người bạn thân của gia đình đưa về nhà, nuôi dưỡng như con gái.
Về sau cô tái hôn với một người khác, một hôm chồng say rượu trở về nhà ông liền trói cô lại rồi đánh đập tàn độc, nấu thịt đứa con mới sinh bắt ăn. Vì sợ hãi nên dù ruột đau như cắt cô vẫn phải ăn. Sau việc đó, cô bỏ trốn tới nước Ba-la-nại, dừng nghỉ dưới gốc cây thì gặp một người vừa chết vợ, sau này yêu thương và nên duyên vợ chồng nhưng được vài hôm ông này cũng bị chết.
Theo luật của nước ấy, nếu vợ chồng vẫn còn đang sống với nhau thì khi chồng chết, vợ phải chôn theo. Thế là cô bị chôn sống theo chồng. May thay lúc đó có một bọn trộm cắp kéo đến đào mộ để lấy của cải, nhờ đó mà được cứu ra sống.
Không biết mình đời trước đã tạo tội gì mà chỉ trong một thời gian ngắn đã phải liên tục gặp những tai họa khủng khiếp đến như thế. Khi nghe biết đức Phật Thích Ca đang ở nơi tinh xá Kỳ Hoàn, ta liền tìm đến chỗ Phật, cô cầu xin được xuất gia. Vì trong quá khứ đã có lần cúng dường thức ăn cho một vị Phật Bích Chi, lại nhân đó có phát nguyện tu hành, nên nhờ nhân duyên ấy mà đời này được gặp Phật, cuối cùng tu tập chứng đắc quả A La Hán.
Có vị huyện lệnh ở vùng Thanh Phổ, Thượng Hải ngày nay muốn thu thêm phí vận tải đường thủy hòng trục lợi cho bản thân và bị người dân hết sức phản đối.
Ông ta bèn triệu tập người dân, dẫn theo 20 vị quan cấp dưới có liên quan đến sự vụ vận chuyển đến trước miếu Thành hoàng phát lời thề độc ngay trước mặt bàn dân thiên hạ: “Khoản chi phí tăng thêm đều sẽ được sung vào công quỹ. Nếu ai chiếm dụng quan viên đó khi chết đều không thể giữ lại cái đầu, đầu và thân tách rời, không ở cùng một chỗ, chúng quan lại cấp dưới đều bị báo ứng hiện tiền”.
Mọi người đành tin cho dù huyện lệnh này lại cùng với các quan nhỏ cấp dưới nhét đầy túi riêng, cùng nhau chia chác khoản tiền này.
Không đến một năm, toàn bộ hai mươi vị quan cấp dưới này lại lần lượt nối tiếp nhau qua đời, phần cổ của huyện lệnh cũng lở loét sinh thành một vết loét lớn, bệnh tình ngày càng nguy kịch.
Không lâu sau đó huyện lệnh cũng qua đời khá thê thảm, khi chết “phần cổ nát vụn rơi xuống mà chết.
Một trong những chuyện tâm linh về thề độc khác đó là trong “Phong Thần Diễn Nghĩa” có kể về hai vị Hoàng từ là Ân Giao và Ân Hồng, khi còn nhỏ bởi Trụ Vương hoang dâm vô đạo, nghe lời gièm pha của Đát Kỷ mà giết vợ hại con, bị Trụ Vương đẩy vào tuyệt lộ, trong lúc nguy nan đã được hai vị tiên nhân Quảng Thành Tử và Xích Tinh Tử, môn hạ của Ngọc Hư cung ứng cứu.
Quảng Thành Tử thu nhận Ân Giao làm đồ đệ, Xích Tinh Tử thu nhận Ân Hồng làm đồ đệ, hai vị tiên nhân không chỉ cứu tính mạng họ, mà còn nuôi nấng hai vị hoàng tử thành người, truyền dạy cho họ một thân đạo thuật, để họ khi ứng thiên thời sẽ phò Chu phạt Trụ, thay mẹ báo thù.
Tuy nhiên, sau khi Ân Giao và Ân Hồng xuống núi lại nghe lời dẫn dụ của Thân Công Báo; chẳng những không tuân theo sứ mệnh mà trái lại còn phò Trụ đánh Chu.
Trước khi xuống núi, Ân Hồng đã thề với Xích Tinh Tử, sư phụ của mình rằng: “Nếu làm trái ý nguyện tứ chi đều hóa thành tro”; Ân Giao cũng thề với Quảng Thành Tử, sư phụ của mình là: “Nếu trái mệnh thầy, nguyện chịu chết dưới lưỡi cày”.
Hai vị hoàng tử vốn chỉ thuận miệng nói ra, khi bị Thân Công Báo dẫn dụ cũng không tin trên đời có báo ứng như vậy. Trái lại còn cảm thấy rằng bản thân là con trai Trụ Vương, phò tá Trụ Vương là lẽ đương nhiên.
Kết quả là, Ân Hồng chết trong Thái Cực Đồ của Lão Tử, thịt nát xương tan hóa thành tro tàn; còn Ân Giao cũng bị mấy vị đại tiên kẹp trong khe núi, chết dưới lưỡi cày. Kết cục của cả hai người quả đúng đều ứng nghiệm với lời thề mà họ thốt ra.
Khi nhìn thấy đồ đệ của mình phải chịu ác quả này, hai vị tiên nhân Xích Tinh Tử và Quảng Thành Tử đều không đành lòng và có ý muốn cứu giúp, nhưng biết rõ không thể làm bừa, cũng lực bất tòng tâm, bởi lời thề mà hai vị hoàng tử phát ra vốn đã có Đất Trời chứng giám.
Trước đây tại thôn làng chúng tôi có bà lão tên là Cổ Đại Nương, tuổi đời đã ngoài bảy mươi, cả cuộc đời bà sống thanh đạm một mình, không chồng cũng không con.
Nguyên là khi còn trẻ, Cổ Đại Nương từng chứng kiến cuộc hôn nhân bất hạnh của hai chị gái mình. Sau khi gả chồng, mỗi ngày hai chị gái của bà đều phải làm đủ mọi việc từ sáng sớm đến tối mịt; tinh mơ đã phải lọ mọ cơm nước đồng áng, đến khi tối về lại bận bịu chăm chồng chăm con, tần tảo là vậy thế nhưng thi thoảng họ vẫn bị chồng đánh đập. Vì để trong mắt nhớ trong tâm những sự việc này, nên Cổ Đại Nương quyết định sẽ không nhận lời lấy bất cứ ai. Bà nói: “Tôi chả ngốc như vậy, một mình sống tự do tự tại chẳng phải tốt hơn sao?”
Vốn sinh ra trong gia đình khá giả, Cổ Đại Nương dẫu không lấy chồng vẫn có thể sống ung dung tự tại. Sau khi cha mẹ qua đời, bà chăm lo vườn tược, tự quyết định mọi vấn đề của bản thân, cảm thấy cuộc sống độc thân mới thật là vui vẻ…
Cách đó không xa, trên ngọn núi phía đông có một ông lão tên là Chân Đại Thúc sống bằng nghề hái thuốc, cả đời cũng không lấy vợ. Ông vốn là người bạn thanh mai trúc mã từ thuở ấu thơ của Cổ Đại Nương. Những ngày cuối tuần, Chân Đại Thúc rỗi rãi lại xuống núi thăm người bạn già, cùng hàn huyên vui vẻ tới khi mặt trời ngả xuống núi mới trở về nhà.
Câu chuyện của Cổ Đại Nương và Chân Đại Thúc nổi tiếng khắp xa gần, ai ai cũng ca ngợi tình bạn của họ trong sáng tựa Bá Nha – Tử Kỳ. Thế nhưng vẫn có một người không tin, đó là cháu trai của bà, tên là Cổ Thủ Nhân.
Khi thấy hai người thường xuyên gặp nhau, Cổ Thủ Nhân nghĩ: “Một người không chồng, một người chưa vợ, lại tâm đầu ý hợp như vậy, há chẳng phải gặp nhau để làm chuyện trái luân thường đạo lý là gì?”
Vậy là, người cháu mang theo nỗi bực tức tới gặp Cổ Đại Nương và lớn tiếng om sòm: “Cô à, cháu thấy Chân Đại Thúc không có vợ, cô cũng không có chồng. Sao hai người không làm thủ tục kết hôn, danh chính ngôn thuận về ở với nhau? Chứ cứ lén lén lút lút như vậy sẽ khiến kẻ hậu bối như cháu không ngẩng đầu lên được, thật là mất mặt!”.
Tiếng quát tháo của Cổ Thủ Nhân làm kinh động tới xóm làng, ai ai cũng chạy đến rồi xì xào bàn tán. Lúc ấy Cổ Đại Nương vẫn bình tĩnh, bà từ tốn nói với cháu trai rằng: “Thủ Nhân à Thủ Nhân, cháu nói vậy là oan cho bà già này rồi. Ta dám thề trước Trời Đất rằng nếu như ta làm chuyện gì đáng hổ thẹn thì ta sẽ bị Trời đánh chết”.
Cổ Thủ Nhân thấy vậy cũng mạnh miệng nói: “Cô dám thề độc cháu cũng dám thề độc. Nếu cháu đổ oan cho cô thì sẽ bị trời đánh chết!”
Cũng kể từ đó, mỗi lần thấy Chân Đại Thúc đến thăm cô mình, Cổ Thủ Nhân lại buông ra những lời nhục mạ, rồi còn đuổi ông ra khỏi nhà. Sự việc cứ kéo dài mãi như thế, dần dần những lời ong tiếng ve bắt đầu nổi lên, cả Chân Đại Thúc và Cổ Đại Nương đều trở thành tâm điểm bị mọi người đem ra bêu riếu, bàn luận.
Vào một ngày nông vụ, Cổ Thủ Nhân đang làm việc ngoài đồng thì trời bất chợt đổ mưa, một tia sét xẹt ngang qua bầu trời theo sau đó là tiếng sấm nổ đùng đùng. Đến khi cơn mưa qua đi, dân làng mới phát hiện Cổ Thủ Nhân đã bị sét đánh tự lúc nào. Cổ Đại Nương nghe được hung tin liền chạy đến ôm lấy đứa cháu, đau đớn xót xa mà than rằng: “Thủ Nhân à, là cô hại cháu, là bà già này đã hại cháu. Nếu biết trước lời thề linh nghiệm như thế thì cô đã ngăn không cho cháu thề độc rồi…”
Lời thề cũng giống như ‘bản giao ước’ với Trời với Đất, là một lời hứa hẹn thiêng liêng với thánh thần, tuyệt nhiên không phải chuyện bỡn cợt để cho gió bay đi.
Từ đây nhìn lại, dẫu là người có tin vào quy luật nhân quả hay không, thì đều không nên tùy tiện phát lời thề. Lỡ như thật sự có một ngày lời thề ứng nghiệm, thì hối hận cũng đã muộn rồi. Lời con người từng nói, đặc biệt là lời thề đã phát ra, đều cần phải thực hiện.
Thông tin mang tính chất tham khảo
Nguồn: MiMo (tổng hợp) - lichngaytot.com
CopyRight 2022, andromeda.vn